Thai D. Nguyen – 2025-10-18 00:04:42
Thân chào Cả Nhà,
Việc Đại học Bách khoa Hà Nội dán logo của trường lên một robot nhập khẩu từ Trung Quốc và trưng bày như sản phẩm do trường tự phát triển đã làm dấy lên làn sóng chỉ trích mạnh mẽ. Những lời phê phán, khiến chúng ta đau lòng, đặc biệt trong bối cảnh các nhà làm nghiên cứu trong nước đã đạt những thành quả giá trị uy tín , và khoa học Việt Nam đang cần những điểm tựa để bứt phá.
Dưới đây mình chia sẻ một số cảm nghĩ và quan điểm về vấn nạn dối trá trong khoa học. Bài hơi dài nên mình chia thành các phần để tiện trình bày.
NHỮNG SỰ CỐ
Đây không chỉ là một sự cố truyền thông đơn thuần, mà là một lời cảnh tỉnh sâu sắc: về cách chúng ta làm khoa học, cách chúng ta đối diện với sự thật, và cách chúng ta muốn được nhìn nhận trên bản đồ tri thức toàn cầu.
Câu chuyện này làm mình nhớ đến một sự kiện tại tiếng khó quên ở Trung Quốc thời Đặng Tiểu Bình. Trong phong trào đưa đất nước thoát khỏi lạc hậu, một nhóm nghiên cứu uy tín đã tự hào giới thiệu, khi ông đến thị sát tiến độ của trung tâm khoa học, một con chip “Made in China” với hiệu năng sánh ngang các sản phẩm hàng đầu thế giới. Nhưng sau đó, người ta phát hiện đó chỉ là một con chip Intel bị xóa nhãn!
Những sự việc như vậy không phải là hiếm, nhất là ở những nước đang trong quá trình tăng tốc phát triển. Khi áp lực thành tích, kỳ vọng chính trị và lòng tự tôn bị trộn lẫn, ranh giới giữa nghiên cứu chân thực và trình diễn hình thức trở nên mong manh. Nhưng chính vì thế, nó cũng cho ta thấy: nếu không có nền tảng trung thực làm gốc rễ, mọi bước tiến chỉ là ảo ảnh và kèm theo đó là những hậu quả khó lường.
Ở Việt Nam, có lẽ chúng ta khó quên được bài học không đẹp đẽ từ câu chuyện “máy phát điện chạy bằng nước” gắn liền với tên tuổi của TS Nguyễn Chánh Khê. Anh là một nhà khoa học có nền tảng về công nghệ nano, mang trong mình lý tưởng trở về phục vụ quê hương và nhận được không ít kỳ vọng của xã hội cho những ý tưởng táo bạo, đột phá. Nhưng khi tấm “thảm đỏ” đón chào cuộn lại, khi danh hiệu “người đương thời” bị ngờ vực và các nhà tài trợ chờ đợi mì ăn liền, con đường của anh bắt đầu lệch khỏi quỹ đạo khoa học.
Hệ quả không chỉ là tổn hại đến uy tín cá nhân và tập thể, mà còn làm hao hụt niềm tin của công chúng vào các chuyện gia khoa học Việt Nam. Nhắc lại câu chuyện này không phải để phán xét anh — bởi theo mình, TS Khê là một người đam mê khoa học, có khát vọng cống hiến và chia sẻ. Nhưng để nhìn thẳng vào vấn đề cốt lõi: khoa hoc cần được giải phóng khỏi những áp lực nổi tiếng, những tham vọng nghiên cứu thiếu nền tảng và áp lực của những nhà kinh doanh chỉ nhằm mục tiêu lợi nhuận tức thời.
Thực tế, giả mạo và gian dối khoa học không phải là “đặc sản” của Việt Nam. Ở nhiều nước châu Á trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện tượng này từng diễn ra thường xuyên. Một giáo sư người Hàn Quốc từng chia sẻ với mình rằng vào thập niên 1970–1980, đất nước họ tràn ngập kết quả nghiên cứu giả mạo, đạo văn và gian lận tài trợ. Thậm chí, có những công trình lớn bị rút lại, có cả giáo sư danh tiếng mất chức. Cú lừa thế kỷ TBG giả tạo của Woosuk Hwang là điển hình. Nhưng giữa cơn hỗn loạn ấy, vẫn có những con người kiên định với lý tưởng chân thật, âm thầm xây dựng niềm tin vào khoa học, đặt nền tảng vững chắc để Hàn Quốc hôm nay trở thành một cường quốc công nghệ. Chính họ — chứ không phải những cái tên hào nhoáng trên truyền thông — đã viết nên lịch sử khoa học đất nước mình.
KHOA HỌC VÀ NIỀM TIN XÃ HỘI
Vấn đề không chỉ nằm ở những hành vi gian dối, mà còn sâu hơn ở cách chúng ta nhìn nhận khoa học. Trong mắt công chúng, khoa học thường được gắn với hình ảnh thuần khiết và sáng láng. Nhưng thực tế, khoa học cũng là một thế giới đầy toan tính, đầy va chạm giữa lý tưởng và lợi ích, giữa tri thức đơn thuần và quyền lực quản lý.
Trong năm tháng làm nghiên cứu ở các nước có nền văn hóa khác nhau và từ kinh nghiệm cá nhân, mình đã chứng kiến đủ kiểu người và cách hành xử trong giới học thuật và xã hội. Có những nhóm xuất phát từ lý tưởng và mong muốn tạo ra giá trị thật, nhưng vì áp lực tài trợ đã phải “chế biến” dữ liệu hay kết quả để vượt qua vòng xét duyệt. Một khi “tay đã nhúng chàm”, con đường quay lại với sự trung thực trở nên vô cùng khó khăn — đây là thực tế phổ biến ở các quốc gia đang phát triển, nơi nguồn tài trợ nghiên cứu hạn chế. Ở các nước phát triển, có những nhóm nghiên cứu “săn mồi” — đánh cắp ý tưởng hay kết quả của nhóm khác thông qua hợp tác hoặc trong quá trình xét duyệt tài trợ, rồi công bố dưới tên tuổi của mình!
Danh vọng và quyền lợi cũng khiến không ít người quên đi những nguyên tắc cơ bản của đời sống học thuật. Một công trình khoa học vốn là kết quả của nhiều tầng lớp ý tưởng, kế thừa và hợp tác song phương hay đa phương. Nhưng khi tư lợi lấn át, nhiều người đã tự nhận mình là “tiên phong”, “người đầu tiên”, tạo ra một chương trình khoa học thiếu gốc rễ, méo mó nếu soi rọi trước lăng kính của khoa học truyền thống. Thực tế, chính họ đã tự giới hạn giá trị công trình vì sự cô lập. Dù hợp tác, nhưng khó sâu rộng và vững bền khi đối tác chỉ thủ lợi cá nhân hay nhóm. Việt Nam ít có các đại công ty công nghệ vì tầm nhìn hẹp hòi của họ.
NHỮNG GÍA TRỊ CỐT LÕI
Tuần trước, mình tham dự lễ vinh danh Giáo sư William Rutter tại UCSF. Điều khiến mình ấn tượng và cảm kích không chỉ là những phát minh mang tính đột phá của ông, mà là cách các đồng nghiệp luôn nhắc đến ông như một phần không thể thiếu trong hành trình của họ, dù chính họ là người trực tiếp thực hiện phần lớn công việc. Sự khiêm nhường ấy không làm lu mờ công lao cá nhân, mà ngược lại, nâng tầm nó lên. Chính thái độ trân trọng những bước đi đầu tiên và giá trị kế thừa đó, đã tạo nên một nền văn hoá khoa học nhân văn và tiến bộ của UCSF và nhiều đại học Hoa Kỳ. Đây cũng là văn hóa khoa học mà chúng ta rất cần phát huy, bước vào hàng ngũ những quốc gia văn minh tiến bộ.
Giữa bức tranh nhiều gam màu trên, khoa học vẫn luôn có những con người sống bằng niềm đam mê thuần khiết và trung thực. Họ có thể thầm lặng, lẻ loi, nhưng tài trí và sự kiên định bền bỉ cho lý tưởng của họ chính là động lực để khoa học nhân loại tiến lên. Họ là những người không bị danh vọng làm mờ mắt, không vì tài trợ mà thỏa hiệp, không quên cội nguồn tri thức đã nuôi dưỡng mình. Chính lớp người này — dù ít được biết đến — mới là linh hồn của nền khoa học. Và chính họ là những người mà xã hội và các tổ chức trách nhiệm không được lãng phí, mà bảo vệ và đầu tư, bởi sự phát triển bền vững chỉ có thể bắt đầu từ những nền tảng trung thực như thế.
Giải Nobel Hóa học năm nay trao cho hai giáo sư Omar Yaghi và Richard Robson chính là minh chứng sống động cho giá trị của sự trung thực và bền bỉ. Phần thưởng cao quý này dành cho những người làm khoa học không vì thành tích bề ngoài, mà vì khát vọng khám phá tri thức chân chính.
VĂN HOÁ KHOA HỌC VIÊT NAM
Việt Nam không thiếu những con người như vậy. Trong lĩnh vực công nghệ sinh học, mình đã có dịp làm việc với những thế hệ nhà khoa học tận tụy từ thời chiến tranh đến thời hậu chiến. Mình biết có những Thày Cô dù qua những tháng năm xa cách phòng thí nghiệm sách vở vì chiến tranh, họ vẫn đầy lý tưởng và nghi lực. Họ xây dựng mạng lưới bệnh xá, và cả xây bệnh viện hiện đại không thua các nước trong vùng. Với khoa học, ho không thiếu tâm huyết và hy sinh; ngay từ đầu có Thày Cô hăng hái tham gia khi kỹ thuật gene còn nhiều xa lạ, và cả khi các nghiên cứu tế bào gốc và miễn dịch tri liệu cần phát triển, họ là những người mở cửa đặt nền móng. Họ đã chèo lái con thuyền khoa học qua bao sóng gió để thế hệ trẻ hôm nay tiếp bước. Rất tiéc một số những đánh giá ngày nay chỉ dựa trên các bài báo và số trích dẫn, xã hội không thấy rõ giá trị cao quý của họ.
Thật đáng mừng, ngày càng có nhiều công trình khoa học Việt Nam được công bố và ghi nhận quốc tế. Nhưng con đường ấy vẫn còn dài, và nó đòi hỏi một điều kiện tiên quyết: chúng ta phải xây dựng được một văn hoá khoa học có bản sắc Việt Nam không chỉ những chủ đề địa phương di truyền, mà gồm bản sắc của sự trung thực, lòng biết ơn, tinh thần học hỏi, và khát vọng khai phá thi đua.
Văn hoá đó không thể là sự sao chép rập khuôn từ phương Tây, nhưng cũng không thể là sự cô lập trong chiếc vỏ dân tộc chủ nghĩa. Nó phải là sự kết hợp hài hòa giữa tinh thần cầu thị của Việt Nam và các giá trị chuẩn mực của khoa học toàn cầu. Trung thực phải được tôn vinh như một giá trị cốt lõi, thất bại phải được nhìn nhận như một phần tự nhiên của hành trình học thuật, và giá trị trung thực phải được bảo vệ trước mọi hào nhoáng của hình thức. Khi ấy, khoa học Việt Nam sẽ trở thành một đối thoại ngang hàng trong cộng đồng tri thức quốc tế.
THAY LỜI KẾT
Vụ việc robot TQ dán logo VN từ ĐHBK, nơi tiêu biểu cho giá trị khoa học của Việt Nam, đang đào sâu trong cộng đồng nhiều ngờ vực kèm theo những suy luận tiêu cực, và đặt ra một câu hỏi quan trọng về đạo đức và trách nhiệm: chúng ta muốn xây dựng một nền khoa học cho Việt Nam như thế nào? Một nền khoa học bề ngoài với những màn trình diễn để làm đẹp và thỏa mãn tự tôn cá nhân, một tập thể? Hay một nền khoa học trung thực, sâu sắc, chấp nhận thử thách, dám học hỏi, và đủ mạnh để tiếp nối hy sinh của những bậc tiền bồi đã dấn thân đi trước?
Nếu thật lòng với tương lai đất nước, lựa chọn chỉ có thể là con đường thứ hai. Đó là con đường của liêm chính, của giá trị thật, và của một văn hoá khoa học Việt Nam vừa mang bản sắc riêng, vừa hòa mình vào dòng chảy chung của tri thức nhân loại.
Khoa học Việt Nam đang trên đà phát triển và có những tiềm năng, cơ hội bứt phá. Tuy nhiên nếu thiếu trách nhiệm đạo đức sẽ tạo rào cản lớn và mang lại những tổn thất nghiêm trọng khó lường. Đây không phải là chuyện con sâu làm rầu nồi canh, mà là ngọn lửa cần dập tắt để tránh lan rộng, ảnh hường cho phát triển đất nước.
Chào thân ái và xin đón nhận những cao kiến.
Statistics:
Likes: 321, Shares: 26, Comments: 24
Like Reactions: 264, Haha Reactions: 2, Wow Reactions: 1, Love Reactions: 49, Sad Reactions: 2, Angry Reactions: 0