Anonymous participant – 2025-09-21 03:41:13
Một Số Nghi Vấn Về Tính Hợp Lệ Của Học Vị Tiến Sĩ của Cô Tô Nhi A
Bài viết này bàn trực tiếp về trường hợp của cô Tô Nhi A. Các thông tin được dùng đến bao gồm bản PDF luận án, các trang chính thức của Học viện Khoa học Xã hội về mục lục và thông báo bảo vệ, quy chế đào tạo tiến sĩ của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong Thông tư 08/2017, cùng với dữ liệu thẩm quyền về tạp chí như ISSN và danh mục của Hội đồng Giáo sư Nhà nước. Mục đích là xem xét tính khoa học của luận án, đồng thời đối chiếu hồ sơ công bố với chuẩn quốc gia tại thời điểm bảo vệ vào cuối năm 2019 và đầu năm 2020. Từ đó đặt ra những nghi vấn cần được làm rõ về học vị Tiến Sĩ của cô
Luận án của Tô Nhi A có tên “Kỹ năng thực hành nghề của sinh viên ngành sư phạm mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh”. Trên cổng thông tin của Học viện, mục lục luận án được đăng ngày 2 tháng 12 năm 2019. Thông báo bảo vệ ghi ngày 25 tháng 12 năm 2019 và buổi bảo vệ diễn ra sáng ngày 9 tháng 1 năm 2020 tại Hà Nội.
Trong phần “Danh mục công trình nghiên cứu đã công bố”, luận án chỉ liệt kê hai bài báo, đều đăng trên Tạp chí Tâm lý học Xã hội số 6 và 7 năm 2018. Không có công bố nào khác bằng tiếng nước ngoài, không có báo cáo hội thảo quốc tế có phản biện và cũng không có bài báo nào đăng trên tạp chí thuộc hệ thống ISI hoặc Scopus. Tạp chí Tâm lý học Xã hội là ấn phẩm trong nước của Hội Tâm lý học Xã hội Việt Nam, ISSN 0866-8019, và được Hội đồng Giáo sư Nhà nước xác nhận là tạp chí nội địa. Như vậy, hai công bố này không nằm trong bất kỳ nhóm nào có thể đáp ứng điều kiện mà Bộ Giáo dục và Đào tạo yêu cầu.
Quy định lúc đó là Thông tư 08/2017, có hiệu lực từ tháng 5 năm 2017. Điều 16 nêu rõ rằng nghiên cứu sinh trước khi bảo vệ phải có ít nhất hai công bố từ kết quả luận án. Trong số đó phải có một bài trên tạp chí ISI hoặc Scopus, hoặc thay bằng hai báo cáo bằng tiếng nước ngoài trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện, hoặc hai bài báo đăng trên tạp chí khoa học nước ngoài có phản biện.
https://moet.gov.vn/content/vanban/Lists/VBPQ/Attachments/1249/08%20-%202017%20-%20TT%20-%20BGD%C4%90T.PDF
Thông tư có điều khoản chuyển tiếp cho phép các khóa tuyển trước tháng 5 năm 2017 tiếp tục theo quy chế 2009 hoặc 2012. Tô Nhi A thuộc khóa tuyển năm 2015, vì vậy có thể nằm trong nhóm này. Tuy nhiên ngay cả khi áp dụng điều khoản chuyển tiếp, xu hướng chính sách của Bộ vẫn là yêu cầu công bố quốc tế. Không có tài liệu công khai nào cho thấy Học viện đã chính thức miễn yêu cầu này cho trường hợp của cô.
Rà soát độc lập trên Scopus, VJOL và Google Scholar không phát hiện công bố quốc tế nào liên quan đến luận án trong giai đoạn 2017 đến 2019. Chỉ có một bài tiếng Anh xuất bản năm 2020 trên PalArch’s Journal of Archaeology of Egypt / Egyptology đồng tác giả với Nguyen Huu Long. Bài này ra đời sau bảo vệ, không gắn với đề tài sư phạm mầm non, và tạp chí PalArch’s sau đó bị rút khỏi Scopus vì nhiều nghi vấn về chất lượng. Như vậy, bài báo năm 2020 không thể tính vào yêu cầu công bố trước bảo vệ.
Từ những dữ kiện trên, có thể thấy tại thời điểm bảo vệ vào tháng 12 năm 2019, hồ sơ công khai chỉ có hai bài báo trong nước. Theo quy định, cần có ít nhất một công bố quốc tế hoặc tương đương. Khi thiếu yếu tố này, học vị tiến sĩ đặt ra nghi vấn về tính hợp lệ. Nếu Học viện có hồ sơ khác chứng minh đã đáp ứng, hồ sơ đó cần được công bố để bảo đảm minh bạch. Nếu không có, thì đây là dấu hiệu cho thấy sự chênh lệch giữa quy định của Bộ và việc áp dụng trong thực tế.
Để công bằng, cần đánh giá cả chất lượng luận án. Luận án tập trung vào một đề tài thực tiễn trong đào tạo giáo viên mầm non. Nghiên cứu có phần khảo sát cắt ngang với khoảng 418 sinh viên, báo cáo hệ số tin cậy Cronbach’s alpha từ 0,8 đến 0,9, xử lý số liệu bằng SPSS 20. Tác giả thực hiện so sánh nhóm, phân tích tương quan và có một can thiệp huấn luyện với nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng. Kết quả cho thấy kỹ năng của nhóm thực nghiệm được cải thiện đáng kể. Đây là những đóng góp có ích cho quản lý đào tạo tại địa phương.
Tuy vậy, hạn chế cũng rõ ràng. Thiết kế chủ yếu dựa vào tự báo cáo và đánh giá của giảng viên, thiếu các kiểm định hiện đại để bảo đảm giá trị đo lường. Thí nghiệm thiếu các biện pháp kiểm soát nhân quả chặt chẽ. Nguồn tài liệu tham khảo chủ yếu là trong nước, ít kết nối với nghiên cứu quốc tế. Luận án hữu ích về mặt thực hành nhưng đóng góp lý thuyết và khoa học còn hạn chế.
Câu hỏi quan trọng nhất vẫn là việc tuân thủ quy định. Bộ đã đặt ra chuẩn công bố quốc tế từ năm 2017 để nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ. Khi hồ sơ công khai của một nghiên cứu sinh chỉ có hai công bố nội địa, điều đó cho thấy khoảng trống giữa quy định và việc thực hiện. Vấn đề không chỉ ở một cá nhân mà còn ở cách hệ thống vận hành. Nếu chuẩn bị nghiêm túc, cơ sở đào tạo có thể công bố danh mục công bố đầy đủ và minh chứng rõ ràng. Nếu không có, thì đây là ví dụ cho thấy liêm chính khoa học có thể bị bỏ qua.
Danh hiệu trên truyền thông không thay thế được chuẩn mực học thuật. Một học vị tiến sĩ cần được bảo vệ bằng các công bố khoa học đúng chuẩn, đúng thời điểm, gắn trực tiếp với kết quả nghiên cứu. Khi chỉ có hai bài trong nước và thiếu công bố quốc tế trước bảo vệ, tính hợp lệ của học vị bị đặt dấu hỏi. Điều cộng đồng có thể làm là đặt câu hỏi dựa trên chứng cứ, yêu cầu minh bạch, và từ đó bảo vệ liêm chính khoa học như một nền tảng cần thiết.
Nếu có minh chứng đáp ứng, hãy công bố để chấm dứt nghi ngờ. Nếu không có, hãy thẳng thắn nhìn nhận và rút kinh nghiệm. Đây là điều cần thiết để bảo vệ giá trị của học vị tiến sĩ và uy tín của nền học thuật Việt Nam.
Shared link: https://moet.gov.vn/content/vanban/Lists/VBPQ/Attachments/1249/08%20-%202017%20-%20TT%20-%20BGD%C4%90T.PDF




Statistics:
Likes: 970, Shares: 155, Comments: 112
Like Reactions: 693, Haha Reactions: 125, Wow Reactions: 22, Love Reactions: 121, Sad Reactions: 5, Angry Reactions: 0