Anonymous participant – 2025-09-05 11:58:38
ỨNG VIÊN PHÓ GIÁO SƯ CÓ 2/4 BÀI TÁC GIẢ CHÍNH VÀ 1/6 BÀI TÁC GIẢ PHỤ CỦA CÁC TẠP CHÍ ISI/SCOPUS NHƯNG LẠI KHÔNG ĐÚNG NGÀNH CÓ PHÙ HỢP VỚI CHỨC DANH CỦA NGÀNH ĐÓ?
🙁 1. Chỉ cần có bài báo ISI/SCOPUS bất kỳ lĩnh vực, ngành, chuyên ngành nào dù không liên quan đến ngành/chuyên ngành xét GS/PGS vẫn đạt?
🙁 2. Ứng viên Nguyễn Văn Tường, hoàn thành Luận án Tiến sĩ năm 2020 nhưng hai năm sau, 2022 mới có bài báo khoa học đăng tạp chí ISI/SCOPUS đầu tiên cho đến 2025 là 10 bài, tất cả đều không phải SSCI chỉ SCOPUS và ESCI, riêng 7/2024-6/2025 là 5 bài chiếm 1/2, phải chăng vì áp lực đủ tiêu chuẩn công bố quốc tế để đạt chức danh PGS?
🙁 3. Tác giả “Joanna Zawiejska”, Ủy ban Giáo dục Quốc gia, Đại học Quốc gia Giáo dục, Krakow, Ba Lan thì liên quan gì đến bài báo số 57 của ứng viên về “Căng thẳng, trầm cảm, lo âu và sự sẵn lòng tìm kiếm sự trợ giúp của nhân viên y tế (Việt Nam) trong đại dịch COVID-19”
Ứng viên **Nguyễn Văn Tường**, ngành Tâm lý học là một trong 4 ứng viên được đề nghị Hội đồng Giáo sư Nhà nước xem xét công nhận, gồm: Lê Minh Công, Ninh Thị Kim Thoa, Phan Anh Tú và Nguyễn Văn Tường, sau khi thông qua Hội đồng Giáo sư Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP.HCM (https://hcmussh.edu.vn/news/item/39008).
Quá trình đào tạo:
Đại học (2011) – Tâm lý học giáo dục, Học viện Quản lý giáo dục, Việt Nam.
Thạc sĩ (2015) – Tâm lý học giáo dục và phát triển, Đại học Tây Nam, Trùng Khánh, Trung Quốc.
Tiến sĩ (2020) – Tâm lý học, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
Thứ nhất, 2/4 bài báo ứng viên là tác giả chính (đầu và/hoặc liên hệ) đăng tạp chí lĩnh vực Dược và Giáo dục:
Về thông tin tạp chí:
“Journal of Advanced Pharmacy Education & Research [JAPER]” thuộc SCOPUS nhóm Q3 lĩnh vực Dược và Giáo dục ([https://www.scimagojr.com/journalsearch.php?q=21100820896&tip=sid](https://www.scimagojr.com/journalsearch.php?q=21100820896&tip=sid)) trong đó “Aim & Scope” của tạp chí “JAPER seeks to highlight the interdisciplinary nature of pharmacy, welcoming contributions from a broad range of topics including, but not limited to, drug discovery and development, pharmacology, toxicology, clinical pharmacy, pharmaceutical technology, and pharmacoeconomics.”
:O Bài số 62 trong hồ sơ ứng viên Phó Giáo sư ngành Tâm lý học năm 2025
Tiêu đề: Childhood storytelling experiences and positive mental health among Vietnamese university students: A cross-sectional study
Tạp chí: *Journal of Advanced Pharmacy Education and Research*
Indexing: Scopus Q3
CiteScore: 2.4
Vol/No/pp: Vol. 14, No. 3, pp. 78–83
DOI: 10.51847/pXvvRNS5JK
Thời gian: 9/2024
:O
Nghiên cứu trường hợp
Trải nghiệm kể chuyện thời thơ ấu và sức khỏe tâm thần tích cực của sinh viên đại học Việt Nam: Nghiên cứu cắt ngang
Tác giả:
Tường Văn Nguyễn¹*, Minh Trọng Quang²,³, Thư Anh Hoàng Nguyễn⁴, Thùy Thanh Thị Tạ⁵, Tấn Phú Thạch Phạm⁶
¹ Khoa Tâm lý học Giáo dục, Trường ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn, ĐHQG TP.HCM, Việt Nam.
² Bộ môn Vi sinh – Ký sinh, Khoa Dược, Trường ĐH Y Dược TP.HCM, Việt Nam.
³ Bộ môn Di truyền, Khoa Sinh học – Công nghệ Sinh học, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQG TP.HCM, Việt Nam.
⁴ Trung tâm Nghiên cứu & Hỗ trợ Sức khỏe Tâm thần, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP.HCM, Việt Nam.
⁵ Khoa Công tác Xã hội & Phát triển Cộng đồng, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP.HCM, Việt Nam.
⁶ Bộ môn Tham vấn & Trị liệu Tâm lý, Khoa Tâm lý học, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP.HCM, Việt Nam.
Liên hệ:
Tường Văn Nguyễn, Khoa Tâm lý học Giáo dục, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP.HCM.
Email: tuongnguyen@hcmussh.edu.vn
TÓM TẮT
Những trải nghiệm kể chuyện thời thơ ấu có liên hệ đến khả năng hồi phục (resilience) và hạnh phúc tinh thần, nhưng nghiên cứu về mối quan hệ này với sức khỏe tâm thần tích cực ở sinh viên đại học Việt Nam còn hạn chế. Nghiên cứu này khảo sát mối liên hệ đó trên 364 sinh viên Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM.
Dữ liệu hồi cứu được thu thập về ba khía cạnh trải nghiệm kể chuyện từ 6–13 tuổi: người kể, thể loại câu chuyện và khả năng kể lại khi trưởng thành. Sức khỏe tâm thần tích cực được đánh giá bằng thang đo chuẩn hóa. Đa số sinh viên nhớ lại trải nghiệm kể chuyện ngẫu nhiên với cha mẹ và thầy cô là những người kể chuyện chính. Các truyện dân gian gia đình và cổ tích được nghe nhiều nhất. Khi trưởng thành, sinh viên cảm thấy việc kể chuyện giúp củng cố giá trị, đối phó khó khăn và chia sẻ với người khác.
Phân tích tương quan cho thấy có những mối liên hệ tích cực đáng kể giữa cả ba khía cạnh trải nghiệm kể chuyện và sức khỏe tâm thần tích cực hiện tại. Những sinh viên sau này báo cáo mức sức khỏe tâm thần tích cực cao hơn nếu họ có trải nghiệm kể chuyện đa dạng, tần suất thường xuyên hơn, cũng như khả năng ghi nhớ và kể lại các câu chuyện quý giá.
Kết quả này cho thấy kể chuyện thời thơ ấu đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển sức khỏe tâm thần tích cực, nhưng nghiên cứu tại Việt Nam còn hạn chế. Nghiên cứu tiếp theo nên áp dụng thiết kế dọc và phương pháp hỗn hợp để làm rõ hơn vai trò của việc kể chuyện. Hạn chế của nghiên cứu là dựa vào hồi tưởng cá nhân và tính đặc thù văn hóa của thước đo sức khỏe tâm thần tích cực.
Từ khóa: Trải nghiệm kể chuyện thời thơ ấu, Sức khỏe tâm thần tích cực, Sinh viên đại học Việt Nam, Nghiên cứu cắt ngang, Yếu tố bảo vệ.
😊 Bài số 66 trong hồ sơ ứng viên Phó Giáo sư ngành Tâm lý học năm 2025:
Tiêu đề: Healing tourism experiences and their impact on stress and anxiety in Vietnamese university students
Tạp chí: *Journal of Advanced Pharmacy Education and Research*
Indexing: Scopus Q3
CiteScore: 2.4
Vol/No/pp: Vol. 15, No. 1, pp. 96–102
DOI: 10.51847/iCYQtUAN9u
Thời gian: 3/2025
😊
Trải nghiệm du lịch chữa lành và tác động của chúng đến căng thẳng và lo âu ở sinh viên đại học Việt Nam
Tác giả:
Tường Văn Nguyễn¹,²*, Hùng Khải Doãn¹,², Minh Trọng Quang³, Anh-Duy Hoàng Nguyễn³, Phú-Tấn Thạch Phạm⁴
¹ Khoa Tâm lý học Giáo dục, Trường ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn, ĐHQG TP.HCM, Việt Nam.
² ĐHQG TP.HCM, Việt Nam.
³ Bộ môn Vi sinh – Ký sinh, Khoa Dược, Trường ĐH Y Dược TP.HCM, Việt Nam.
⁴ Bộ môn Tham vấn & Trị liệu Tâm lý, Khoa Tâm lý học, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP.HCM, Việt Nam.
Liên hệ:
Tường Văn Nguyễn, Khoa Tâm lý học Giáo dục, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP.HCM.
Email: tuongnguyen@hcmussh.edu.vn
TÓM TẮT
Những thách thức về sức khỏe tâm thần, bao gồm căng thẳng và lo âu, khá phổ biến ở sinh viên đại học, đòi hỏi những cách tiếp cận mới nhằm nâng cao sự an lạc tinh thần. Du lịch chữa lành, kết hợp trải nghiệm hồi phục với lợi ích sức khỏe tâm thần, đã nổi lên như một biện pháp hứa hẹn. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu hiện nay tập trung vào bối cảnh phương Tây và nhấn mạnh kết quả sức khỏe tổng quát hơn là kết quả tâm lý trực tiếp, tạo nên khoảng trống trong việc hiểu biết về tác động của du lịch chữa lành lên căng thẳng và lo âu ở các bối cảnh phi phương Tây như Việt Nam.
Nghiên cứu này là phân tích định lượng đầu tiên về tác động tâm lý của du lịch chữa lành trên sinh viên đại học Việt Nam, đem lại những hiểu biết sâu sắc vào giá trị văn hóa của hiện tượng này. Sử dụng các thang đo chuẩn hóa, chúng tôi khảo sát 308 sinh viên tham gia hoạt động du lịch chữa lành và phát hiện rằng yếu tố khoảng cách và sự cuốn hút làm giảm đáng kể lo âu, trong khi sự tương thích văn hóa là yếu tố dự đoán mạnh nhất đối với việc giảm căng thẳng và tăng tự hiệu quả. Ngược lại, sự yếu hơn trong các kết quả liên quan đến sức khỏe tâm thần có thể phản ánh khác biệt văn hóa trong nhận thức về môi trường trải nghiệm.
Bằng cách giải quyết khoảng trống này, nghiên cứu mở rộng cơ sở lý thuyết về du lịch chữa lành và cung cấp hiểu biết thực tiễn cho các nhà khai thác du lịch và chuyên gia sức khỏe tâm thần ở Đông Nam Á. Nghiên cứu tương lai nên áp dụng các phương pháp hỗn hợp dọc để khám phá các quan hệ nhân quả và mở rộng đối tượng trong các bối cảnh văn hóa khác nhau.
Từ khóa: An lạc tâm lý, Giảm căng thẳng, Giảm lo âu, Du lịch chữa lành, Bối cảnh văn hóa, Can thiệp sức khỏe tâm thần.
Thứ hai, Về 1/6 bài báo ứng viên là tác giả phụ đăng tạp chí lĩnh vực Khoa học Môi trường và Khoa học Xã hội (nhóm Sức khỏe Xã hội và Nghiên cứu Đô thị học):
“Journal of Advanced Pharmacy Education & Research [JAPER]” thuộc SCOPUS nhóm Q3 lĩnh vực Dược và Giáo dục ([https://www.scimagojr.com/journalsearch.php?q=21101038722&tip=sid](https://www.scimagojr.com/journalsearch.php?q=21101038722&tip=sid)) trong đó “Aim & Scope” của tạp chí “The Journal of People, Plants, and Environment (PPE) (ISSN 2508-7673) is an international peer- reviewed journal aimed at presenting high-quality research with all plant-dominated resources in and around communities such as street trees, urban forests, parks and gardens, natural conservation areas, botanical gardens and cemeteries and their use, planning, design, establishment and management as its main topics.”
😛 Bài số 57 của ứng viên làm tác giả phụ:
Tiêu đề: Stress, Depression, Anxiety and Willingness to Seek Help of Healthcare Workers in the COVID-19 Pandemic
Tạp chí: *Journal of People Plants Environment*
Indexing: Scopus Q3 | CiteScore: 1.1
Vol/No/pp: Vol. 27, No. 3, pp. 207–216
DOI: 10.11628/ksppe.2024.27.3.207
Thời gian: 6/2024
😛
Căng thẳng, trầm cảm, lo âu và sự sẵn lòng tìm kiếm sự trợ giúp của nhân viên y tế trong đại dịch COVID-19
Tác giả:
Lê Minh Công¹*, Nguyễn Văn Tường², Phạm Thị Bích Ngọc³, Ngọc Diễm Bùi⁴, Cao Xuân Liêu⁵, Joanna Zawiejska⁶
¹ Nghiên cứu viên, Trường ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn, ĐHQG TP.HCM, Việt Nam
² Nghiên cứu viên, Trường ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn, ĐHQG TP.HCM, Việt Nam
³ Nghiên cứu viên, Trường ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn, ĐHQG TP.HCM, Việt Nam
⁴ Nghiên cứu viên, Trung tâm Tâm lý ứng dụng Hoàng Đức, Việt Nam
⁵ Nghiên cứu viên, Khoa Tâm lý học Giáo dục, Học viện Quản lý Giáo dục, Việt Nam
⁶ Nghiên cứu viên, Ủy ban Giáo dục Quốc gia, Đại học Quốc gia Giáo dục, Krakow, Ba Lan
TÓM TẮT
Bối cảnh và mục tiêu:
Mặc dù giai đoạn nghiêm trọng của đại dịch COVID-19 đã qua, song hệ lụy không chỉ dừng lại ở khía cạnh kinh tế – xã hội mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến sức khỏe tinh thần của nhiều nhóm dân cư, đặc biệt là nhân viên y tế – những người phải chịu đựng gánh nặng khắc nghiệt và lâu dài hơn cả. Nghiên cứu này nhằm khám phá thực trạng sức khỏe tâm thần của nhân viên y tế, đồng thời đánh giá khả năng của họ trong việc quản lý hiệu quả các vấn đề sức khỏe tinh thần trong bối cảnh đại dịch. Đặc biệt, nghiên cứu tập trung vào mối liên hệ giữa thang đo trầm cảm, lo âu, căng thẳng (DASS) và hành vi tìm kiếm sự trợ giúp tâm lý.
Phương pháp:
Nghiên cứu tiến hành từ tháng 4/2022 đến 8/2022 với khảo sát trực tuyến trên 638 nhân viên y tế tại 2 bệnh viện tuyến đầu ở TP.HCM (Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Nhiệt Đới). Khảo sát được triển khai thông qua các khoa công tác xã hội của hai bệnh viện.
Kết quả:
Kết quả cho thấy phần lớn nhân viên y tế gặp nhiều vấn đề sức khỏe tâm thần ở mức độ từ nhẹ đến nặng, tùy thuộc vào đặc điểm cá nhân như giới tính, trình độ học vấn, đặc điểm nghề nghiệp. Nghiên cứu cũng phát hiện có mối tương quan giữa thái độ tìm kiếm sự trợ giúp với biểu hiện trầm cảm, lo âu và căng thẳng. Tuy nhiên, chỉ một tỷ lệ nhỏ nhân viên y tế thực sự có thái độ tích cực và sẵn lòng tìm đến sự trợ giúp của nhà tâm lý học khi gặp vấn đề tâm thần.
Kết luận:
Các nhà hoạch định chính sách cần ưu tiên các chiến dịch nâng cao nhận thức thường xuyên ngay từ giai đoạn đầu của dịch bệnh nhằm thúc đẩy động lực, tri thức và dự phòng cho nhân viên y tế. Cách tiếp cận này có thể giúp phát hiện sớm vấn đề tâm thần và giảm sự kỳ thị khi tìm kiếm sự hỗ trợ. Việc khuyến khích trị liệu nhóm, đồng thời tháo gỡ rào cản văn hóa trong ngành y, sẽ giúp tăng cường sự tiếp cận dịch vụ của nhà trị liệu tâm lý và bác sĩ tâm thần, từ đó cải thiện sức khỏe tinh thần tổng thể.
Từ khóa: DASS, tìm kiếm sự trợ giúp, sức khỏe tâm thần, nhà tâm lý học, COVID-19.


Statistics:
Likes: 123, Shares: 26, Comments: 38
Like Reactions: 99, Haha Reactions: 9, Wow Reactions: 14, Love Reactions: 1, Sad Reactions: 0, Angry Reactions: 0