Anonymous participant – 2025-06-01 10:50:44
Đào tạo tiến sĩ y học: Nguy cơ từ sự lạm phát đề tài dịch tễ học và có nội dung mô tả đơn giản
Hiện nay quy trình đào tạo tiến sĩ tại nước ta còn khá nhiều vấn đề cần bàn. Một trong số đó là câu hỏi về giá trị khoa học hoặc ứng dụng của các đề tài nghiên cứu, liệu có xứng đáng với học vị tiến sĩ hay không ? Vấn đề này phát sinh nhiều tranh luận, ví dụ trường hợp đề tài về việc tập luyện môn cầu lông, aerobic. Tuy nhiên, ngay cả các trường hợp đó thì đề tài vẫn có ý nghĩa nhất định về thực tiễn và có hình thức một nghiên cứu hiệu quả can thiệp nghiêm túc. Trái lại, chất lượng đề tài nghiên cứu trong một chuyên ngành quan trọng hơn nhiều là Y học, lại ít được quan tâm.
So với tiêu chuẩn đào tạo Tiến sĩ y học ở đại học nước ngoài, trình độ của học vị này ở nước ta vốn đã rất thấp. Ví dụ, luận án tiến sĩ nước ngoài tổng hợp từ 2-3 nghiên cứu/thí nghiệm thay vì chỉ một nghiên cứu duy nhất như ở ta, và nghiên cứu sinh phải công bố ít nhất là 3 bài báo thay vì chỉ một bài như ở ta.
Chuẩn thấp như vậy, mà nội dung đề tài thường rất đơn giản. Trong khi tiến sĩ y học nước ngoài khám phá ra cơ chế sinh lý học phân tử, phát minh ra công nghệ mới, phương pháp điều trị mới, thì nghiên cứu sinh nước ta thường chỉ làm nghiên cứu lâm sàng. Thậm chí, nhiều bác sĩ chuyên khoa chủ động chọn đề tài đơn giản như dịch tễ học, khoa học hành vi, y tế công cộng, dù sau đó học vị tiến sĩ mà họ đạt được nghiễm nhiên gắn với chuyên khoa của bản thân.
Xin lấy một ví dụ, khi phân tích các luận án tiến sĩ tại một viện nghiên cứu trong thời gian 1 năm (tháng 5/2024 – tháng 5/2025), có thể nhận ra: 6/11 (54.5%) đề tài thuộc chuyên ngành dịch tễ học, mang lại học vị tiến sĩ y học cho các bác sĩ thuộc nhiều chuyên khoa khác nhau. Hầu hết các đề tài là nghiên cứu cắt ngang đơn giản, tại một cơ sở hoặc địa phương duy nhất. Rất ít đề tài có khả năng ứng dụng trong thực hành lâm sàng hoặc công nghệ. Nhiều đề tài thiên về mô tả, chỉ cung cấp thông tin về thực trạng mà thiếu giả thuyết mạnh, kiểm định khoa học chặt chẽ.
Thực ra, tự thân đề tài dịch tễ học không có nghĩa là kém giá trị hơn nghiên cứu y học lâm sàng. Tuy nhiên, trình độ Tiến sĩ cần những đề tài xứng tầm, về phương pháp nghiên cứu và nhiều yếu tố khác, như:
Tính mới: đề tài có đặt ra một câu hỏi nghiên cứu mới lạ hoặc đóng góp kiến thức mới cho lĩnh vực y học không ? Ví dụ, một nghiên cứu cắt ngang mô tả vẫn có thể xứng đáng nếu nó khám phá một vấn đề nghiêm trọng tiềm ẩn chưa được quan tâm.
Chất lượng về phương pháp: nghiên cứu sinh tiến sĩ lẽ ra cần được khuyến khích thực hành làm những loại nghiên cứu khó, phức tạp nhưng hữu ích như can thiệp điều trị, điều tra đoàn hệ hồi cứu, theo dõi tiến cứu, hoặc RCT.
Giá trị ứng dụng: Kết quả của luận án có mang lại giá trị thực tiễn hoặc lý thuyết không?
Một luận án về dịch tễ học cắt ngang mô tả hoàn toàn có thể xứng đáng với học vị tiến sĩ nếu nó đáp ứng các tiêu chí về tính mới, chất lượng khoa học, và tầm quan trọng. Tuy nhiên, nếu luận án chỉ dừng ở mức thu thập dữ liệu đơn giản mà không có thực nghiệm, không phân tích sâu hoặc đóng góp đáng kể, nó có thể bị xem là chưa đủ tầm cho học vị tiến sĩ.
Việc lạm phát đề tài nghiên cứu dịch tễ học mô tả có thể mang lại một số tác động tiêu cực đối với nền y học hàn lâm của một quốc gia, bao gồm:
Lạc hậu và suy thoái: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thường chỉ cung cấp thông tin cơ bản (ví dụ, tỷ lệ mắc, tỷ lệ tử vong), nhưng không giải thích nguyên nhân hoặc cơ chế. Nếu các nhà nghiên cứu chỉ tập trung vào loại nghiên cứu này, nền y học hàn lâm có thể thiếu các nghiên cứu phân tích (như nghiên cứu đoàn hệ, can thiệp, hoặc cơ chế sinh học), dẫn đến sự chậm tiến trong việc hiểu sâu về bệnh tật và phát triển các giải pháp mới.
Nghiên cứu mô tả không cung cấp bằng chứng về hiệu quả của các can thiệp y tế. Nếu một quốc gia chỉ tập trung vào mô tả, các chính sách y tế công cộng hoặc phương pháp điều trị mới có thể thiếu cơ sở khoa học mạnh mẽ để triển khai.
Hạn chế về năng lực nghiên cứu: Việc chỉ thực hiện các nghiên cứu mô tả đơn giản có thể làm giảm cơ hội phát triển kỹ năng nghiên cứu nâng cao cho các nhà khoa học trẻ. Điều này có thể làm giảm năng lực cạnh tranh của quốc gia trên trường quốc tế.
Ảnh hưởng đến danh tiếng học thuật: Các tạp chí y học quốc tế thường ưu tiên các nghiên cứu phân tích hoặc can thiệp có tác động lớn. Nếu các nhà nghiên cứu trong nước chỉ công bố các bài báo mô tả, họ có thể gặp khó khăn trong việc đạt được sự công nhận quốc tế, dẫn đến việc nền y học hàn lâm của quốc gia bị đánh giá thấp.
Phụ thuộc vào nghiên cứu nước ngoài: Nếu không phát triển các nghiên cứu sâu hơn, quốc gia có thể phải dựa vào dữ liệu và giải pháp từ các nước khác, vốn có thể không phù hợp với bối cảnh địa phương.
Kết luận: Để phát triển nền y học hàn lâm bền vững, cần khuyến khích sự đa dạng trong các loại hình nghiên cứu, từ mô tả đến phân tích và can thiệp, đồng thời đầu tư vào đào tạo và cơ sở hạ tầng nghiên cứu. Các chương trình đào tạo tiến sĩ cần khuyến khích học viên đặt ra đề tài mới, sáng tạo, áp dụng các phương pháp nghiên cứu phức tạp hơn. Nghiên cứu sinh cần hợp tác với các tổ chức quốc tế và viện nghiên cứu ngoài nhiệm sở công tác thay vì tự thân vận động một mình. Các viện đại học nên chủ động đầu tư vào các phòng thí nghiệm, cơ sở dữ liệu lớn, và công nghệ để hỗ trợ các nghiên cứu có tính đổi mới cao.
Statistics:
Likes: 253, Shares: 38, Comments: 24
Like Reactions: 236, Haha Reactions: 3, Wow Reactions: 1, Love Reactions: 9, Sad Reactions: 3, Angry Reactions: 0