Anonymous participant – 2025-10-09 23:13:02
**Một chút drama nhẹ và lịch sử của giải Nobel Hoá Học 2025 về MOF năm nay.**
**Lưu ý quan trọng trước khi đọc: **Bài viết này được tổng hợp dựa vào những cuộc trò chuyện “riêng biệt” với những người trong ngành và “sự hiểu biết hạn hẹp” của người viết. Lựa chọn và cảm nhận/suy nghĩ hoàn toàn nằm ở độc giả.
**Giải Nobel Năm Nay Là Về Cái Gì?**
Giải Nobel về metal-organic framework (MOFs – tạm dịch khung kim loại hữu cơ). Tối thiểu về MOFs được cấu tạo bởi 2 phần chính: nút kim loại (thường là kim loại chuyển giao), và phần liên kết hữu cơ. Cùng nhau, các nút và liên kết tạo thành các hộp có lỗ rỗng, và những lỗ rỗng có thể dùng để chứa đựng, vận chuyển các hợp chất như CO2, nước, hoặc thuốc đến các tế bào trong cơ thể vật sống, hoặc chất xúc tác, v.v.
Hiểu đơn giản nhất, tưởng tượng MOFs là miếng bọt biển rửa chén. Các miếng bọt biển này có khả năng hút các phân tử như nước, CO2, hay các khí độc hại nhờ các lỗ rỗng siêu nhỏ bên trong bọt biển, và các bọt biển này có thể tích trữ phân tử lâu dài cho tới khi người dùng “bóp” để xả các phân tử. Chúng ta có thể dùng các bọt biển này để tích trữ nước trong không khí ở những nơi khô hạn như sa mạc vào ban đêm, hay để vận chuyển các khí độc hại đến 1 nơi khác để tiêu huỷ. 2 ưu điểm lớn nhất của MOFs chính là: (i) dễ sản xuất và (ii) dùng đi dùng lại được nhiều lần.
Tuy nhiên, còn 1 định nghĩa nữa cần được làm rõ, chính là **Coordination Polymers **(viết tắt CPs, tạm dịch là Polyme phối trí theo như Google). CPs được định nghĩa là sự lập đi lập lại giữa nút kim loại và liên kết hữu cơ có các chiều không gian khác nhau từ 0D đến 3D. Khác với MOFs, CPs không yêu cầu nhất thiết phải có lỗ rỗng trong cấu trúc phân tử, nhưng tất cả các **MOFs đều là CPs ở chiều không gian 3D.**
Điều quan trọng cuối cùng: đại đa số MOFs và CPs đều là tinh thể rắn, và để nghiên cứu cấu tạo phân tử, các nhà khoa học phải dùng đến tia phổ X-ray (Single Crystal X-ray diffraction
**Background về các ứng viên cho giải Nobel Hoá năm nay – Richard Robson**
Theo như dự đoán của rất nhiều chuyên gia trong ngành, nếu có 1 giải Nobel về MOFs, thì ứng viên đầu tiên chắc chắn sẽ là Omar Yaghi, và 2 ứng viên còn lại chính là sự tranh cãi rất lớn. Nhiều người cho rằng** **Makoto Fujita** **cũng xứng đáng không kém Kitagawa khi những cống hiến của ông cho cả lĩnh vực CPs, cũng không thể phủ nhận cống hiến của những người khác như M. J. Zaworotko (Mike Z), M. J. Rosseinsky, M. D. Ward, X. M. Chen, M. W. Hosseini, v.v
Rất nhiều bài báo cho Omar Yaghi (kể cả chính Omar) là cha đẻ của MOFs và là người đặt nền móng cho cả lĩnh vực này. Nhưng điều này hoàn toàn là **SAI**. **Omar Yaghi **có rất nhiều cống hiến vĩ đại trong ngành, cũng như **Susumu Kitagawa**, nhưng những nền móng vĩ đại này đều được đặt bởi **Richard Robson – cũng chính là lí do tại sao Richard Robson lại được giải Nobel năm nay.**
**Richard Robson **là 1 “quái thú kinh dị” trong ngành. Khác với Kitagawa hay Yaghi có 1 đội ngũ nghiên cứu sinh đông đảo (và rất giỏi), Richard Robson (cùng với Bernard Hoskins ông là biochemist, hiện đã mất) đã tìm và đặt ra định nghĩa cho CPs. Ông bước vô phòng lab với các ý tưởng nếu như nút kim loại và hữu cơ có thể lập đi lập lại theo 1 cấu trúc nhất định nào đó, và **1 mình ông bước vào phòng thí nghiệm, thực hiện nó vào những năm 1970**. Cũng 1 điều thú vị, khi nói đến các nhà khoa học làm về CPs hay MOFs, thì tất cả nhà khoa học đều sẽ trả lời họ dành rất nhiều thời gian hoạt động trên X-ray nhưng Richard Robson cả đời gần như chưa bao giờ hoạt động trên X-ray. Khi công bố các nghiên cứu này, ở cuối bài báo Richard Robson có vài dự đoán chung cho lĩnh vực CPs ở tương lai, và tất cả dự đoán của ông đều đã thành hiện thực.
**Richard Robson** cũng là 1 người rất rất hướng nội, khi trả lời phỏng vấn cảm nhận của ông khi được giải Nobel, ông nói rằng:”Tôi đã già rồi (ông hiện 88 tuổi), và tôi không còn sức để ngồi làm hay trả lời những thứ tào lao từ báo chí nữa”. Khi ở tuổi 70 – 80, ông vẫn hay đi đến phòng lab ở ĐH Melbourne, và vẫn đam mê tạo ra thêm chất mới.
**Drama nhẹ về Omar Yaghi**
Không phủ nhận những cống hiến vĩ đại của Omar Yaghi, nhưng Omar khá nổi tiếng với việc “nhận vơ” và “quảng cáo láo”.
Omar hay tự nhận mình là cha đẻ của cả lĩnh vực MOFs – điều này sai bởi vì ngay cả định nghĩa của MOFs mà Omar đặt ra ở năm 1990s cũng y hệt định nghĩa mà Richard Robson (và Hoskins) đặt ra cho CPs vào năm 1989. Việc VinFuture trao giải 2021 về lĩnh vực **tiên phong sáng tạo vượt trội trong khoa học** cho Omar Yaghi cũng gây ra rất nhiều tranh cãi cho chính Vin ở các nhà khoa học khác trong ngành, bởi vì lĩnh vực MOFs này không hề do Omar Yaghi tạo ra (ngay trên bio của Omar ở web Vinfuture còn ghi rõ Omar là “công trình nghiên cứu tiên phong của ông”. Cho tới nay, nếu để ý các bài phỏng vấn đại chúng, Omar vẫn luôn tự cho mình là cha đẻ của ngành MOFs.
MOF-5 là hợp chất đặc biệt nhất mà Omar Yaghi hay quảng bá, với những tấm hình thể hiện lỗ rỗng lớn (sự thật không hề lớn).
Những năm đầu tiên trong khoảng 1990 – 2010 Omar Yaghi tin rằng và luôn đi quảng bá rằng “lỗ rỗng càng to là càng tốt ở MOFs cho việc lưu trữ các hợp chất vì chứa được nhiều thứ” và Omar liên tục đăng các bài nghiên cứu khoa học về lỗ rỗng có kích cỡ lớn trong MOFs. Mike Zaworotko sau này có gián tiếp phê bình ông sau này về việc “quảng cáo láo” và chỉnh rằng những hợp chất có lỗ rỗng lớn phải có khối lượng riêng lớn mới có ứng dụng thực tiễn.
Richard Robson cũng không thích việc Omar đem nhận vơ tất cả công lao mọi thứ về MOFs cho riêng mình. Năm 2024 sau khi bị nhà xuất bản bắt nạt phải viết tiểu sử về lĩnh vực CPs và MOFs nói chung, trong bài viết ông có nói rằng:” Chính tôi tự tạo ra liên kết hữu cơ, đặt tên cho chính nó. […] Xuyên suốt 2 thế kỉ trong nhóm khoa học nhỏ của tôi, tôi khám phá ra được ra vô số các cấu trúc bất ngờ chưa từng có và các phản ứng bất thường – tất cả đều là kết quả của quá trình lên kế hoạch trước đó”. Ông công bố các công trình nghiên cứu này ở 1 bài thuyết giảng ACS ở Atlanta vào tháng 4 năm 1991 – nơi mà Omar Yaghi cũng đã đến để nghe bài thuyết giảng này và học từ Richard Robson
**MOFs có thật sự hiệu quả?**
Sự thật hiện tại, **MOFs có rất nhiều tiềm năng nhưng hiệu quả ứng dụng hiện tại đang rất thấp,** việc MOFs phụ thuộc việc nuôi thành công tinh thể và sở hữu hiệu năng thấp hoặc tốn quá nhiều chi phí để sản xuất số lượng lớn. Đây cũng chính là lí do giải Nobel hoá năm nay gây khá nhiều tranh cãi vì MOF chưa hề có tính thực tiễn cao.
Shared link: https://pubs.acs.org/doi/abs/10.1021/ja2087344
Statistics:
Likes: 460, Shares: 73, Comments: 28
Like Reactions: 396, Haha Reactions: 2, Wow Reactions: 1, Love Reactions: 59, Sad Reactions: 0, Angry Reactions: 0